Điểm lại kết quả phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Lào Cai qua các giai đoạn phát triển từ năm 1991 - 2021
Giai đoạn 1991 - 2000, tỉnh đã dồn sức để khôi phục kinh tế, ổn định
đời sống xã hội và từng bước kiến thiết xây dựng kết cấu hạ tầng, phát triển kinh tế - xã hội và đã đạt dược kết quả tích cực:
Về kinh tế: Tập trung sắp xếp, khôi
phục, phát triển các ngành kinh tế nhằm bảo đảm ổn định đời sống nhân dân, tạo
dựng cơ sở cho giai đoạn sau. Qui mô GRDP năm 2000 gấp 2,1 lần năm 1991.
Nông nghiệp phát triển một cách toàn
diện, khẳng định được vai trò là ngành kinh tế trọng tâm, là nền tảng của địa
phương. Quy mô sản xuất nông nghiệp năm 2000 gấp 1,6 lần năm 1991.
Công nghiệp được coi là đòn bẩy của
toàn bộ nền kinh tế địa phương. Quy mô sản xuất công nghiệp năm 2000 gấp 2,6
lần năm 1991. Tốc độ tăng trưởng của công nghiệp luôn cao hơn nông nghiệp và
dịch vụ, bình quân đạt 17,9%/năm. Vai trò, vị trí của công nghiệp trong cơ cấu
kinh tế của tỉnh từng bước được khẳng định. Tỷ trọng giá trị sản xuất của công
nghiệp trong GDP tăng lên, năm 1991 chiếm 16,9%, đến năm 2000 chiếm 19,6%.
Dịch vụ có tốc độ tăng trưởng khá
cao, giai đoạn 1991-1995 tăng 22,6%/năm, đặc biệt, từ năm 1996 đến năm 2000,
qui mô giá trị sản xuất dịch vụ tăng vượt bậc, năm 2000 gấp 7,7 lần năm 1995,
gấp 16,9 lần năm 1991, tốc độ tăng trưởng bình quân trong 10 năm đạt 17,3%/năm,
so với cả nước đạt 9,4%/năm.
Du lịch phát triển mang lại một
nguồn thu nhập không nhỏ, góp phần cải thiện đời sống, xoá đói giảm nghèo và
đóng góp đáng kể vào GRDP của tỉnh, năm 2000 doanh thu
từ du lịch đạt 36,45 tỷ đồng, gấp 1,8 lần năm 1995. Giai đoạn 1995- 2000,
doanh thu từ du lịch tăng bình quân 27%/năm.
Tổng thu ngân sách hàng năm tăng nhanh, từ
năm 1992 đến năm 1995 thu ngân sách của Lào Cai tăng gấp 3,1 lần. Năm 2000, thu
từ kinh tế địa phương đạt 316.205 triệu đồng, gấp 2,4 lần năm 1996, gấp 12,6
lần năm 1992.
Lĩnh vực văn hóa - xã hội: Dưới tác động và yêu cầu
của sự phát triển, một số lĩnh vực của đời sống xã hội trên địa bàn tỉnh Lào
Cai từ năm 1991 đến năm 2000 có bước chuyển biến tích cực, tạo cơ sở cho sự
phát triển bền vững của địa phương.
Giáo dục và đào tạo: Cùng với việc mở rộng về
quy mô, chất lượng giáo dục của tỉnh Lào Cai cũng được nâng lên. Hệ thống
trường lớp phù hợp với điều kiện thực tiễn của địa phương, cơ bản đáp ứng với
yêu cầu phát triển của sự nghiệp giáo dục và đào tạo cũng như nhu cầu học tập
của nhân dân các dân tộc trên địa bàn tỉnh. Đội ngũ giáo viên các cấp được tăng
cường, cơ sở vật chất phục vụ cho dạy, học được đầu tư trang bị, chất lượng
giáo dục được nâng cao, tỷ lệ người biết chữ trên địa bàn tỉnh cao hơn so với
trước (năm 1999, tỷ lệ người biết chữ ở Lào Cai từ 15 tuổi trở lên chiếm 68,8%).
Số lượng học sinh tốt nghiệp, đỗ đại học, cao đẳng ngày một tăng cao. Trong 10
năm đầu tái lập tỉnh, Lào Cai đã có 70.701 người được xóa mù chữ, có 99.709 học
sinh tốt nghiệp tiểu học. So với năm học 1991-1992, số học sinh tốt nghiệp năm
học 2000-2001 gấp 5,5 lần. Đến năm 2000, toàn tỉnh Lào Cai có 9 trường tiểu học
đạt trường chuẩn quốc gia, số trường tiểu học học bán trú và học đủ 9 môn ngày
càng nhiều hơn.
Y tế: đã có bước chuyển biến nhất
định, hệ thống mạng lưới y tế từng bước được đầu tư xây dựng và hoàn thiện, đến
năm 1995, bằng hình thức cắm điểm cán bộ y tế hoặc cán bộ của đội y tế lưu
động, tỉnh Lào Cai đã xoá xã trắng về y tế. Công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân
được quan tâm hơn, đến năm 2000, tỷ lệ trẻ em trong độ tuổi được tiêm chủng đạt
từ 90% đến 99%. Số trẻ được uống Vitamin A, năm 1993 mới đạt 35,19%, đến năm
2000 đạt tới 98,14%. Tỷ suất mắc bệnh sốt rét từ năm 1992 đến năm 1999 giảm hơn
7 lần. Năm 1996, tỉnh Lào Cai đã thành công trong công tác phủ muối Iốt trên
toàn tỉnh. Công tác phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em được thực hiện. 100% xã,
phường, thị trấn đã thành lập Ban phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em. Đội ngũ
cán bộ y tế được tăng cường hơn về số lượng và nâng cao về trình độ chuyên môn.
So với năm 1991, đến năm 2000, số lượng cán bộ y tế, bác sĩ và dược sĩ có trình
độ đại học tăng lên gấp 2,7 lần trong đó có 270 bác sỹ và dược sỹ đại
học là 26 người. Công tác dân số, kế hoạch hoá gia đình cũng được tỉnh Lào
Cai chú trọng. Tại thời điểm tách tỉnh (1991), tỷ lệ tăng dân số tự nhiên của
Lào Cai là 3,5%, cao hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế, đến năm 2000 tỷ lệ tăng
dân số giảm còn 2,1%.
Văn hóa, thể dục, thể thao: Lào Cai đã đầu tư xây dựng
thêm trung tâm văn hóa, tăng kinh phí cho các hoạt động văn hóa, nghệ thuật
quần chúng. Số trung tâm văn hóa huyện, thị xã tăng lên. Năm 1995 toàn tỉnh Lào
Cai có 6 trung tâm, đến năm 2000 có 10 trung tâm văn hóa. Hệ thống truyền hình
và truyền thanh cũng được mở rộng hơn. Năm 1991, toàn tỉnh Lào Cai mới có 15
trạm truyền hình và truyền thanh, đến năm 2000, Lào Cai có 108 xã, phường,
thị trấn được phủ sóng truyền hình, có 98 xã, phường, thị trấn được
phủ sóng phát thanh; nhiều huyện và xã được đọc báo trong ngày.
An sinh xã hội: Nhận thức được vai trò quan trọng
của hệ thống an sinh xã hội, trong 10 năm đầu tái lập (1991-2000), tỉnh Lào Cai
đã thực hiện các chính sách và các chương trình giải quyết việc làm, chính sách
bảo hiểm xã hội, chính sách bảo hiểm y tế, chính sách ưu đãi đặc biệt; trợ giúp
xã hội cho các đối tượng yếu thế, chính sách và các chương trình trợ giúp người
nghèo và đã đạt được một số kết quả bước đầu.
Giai đoạn 2001 - 2010
Kết quả phát triển của 10 năm
đầu tái lập tỉnh (1991- 2000) đã tạo tiền đề cơ sở vật chất để Lào Cai quyết định đề ra mục
tiêu, nhiệm vụ phát triển cho giai đoạn (2001-2010). Trong 10 năm, kết quả đạt được trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội đều thể hiện sự phát triển mạnh
mẽ.
Lĩnh vực kinh tế: Trong 10 năm (2001-2010),
kinh tế tỉnh Lào Cai có bước phát triển vượt bậc hơn so với 10 năm đầu tái lập
tỉnh. Tốc độ tăng trưởng kinh tế từ năm 2001 đến năm 2010 luôn ở mức 02 chữ số, cao hơn 10 năm đầu tái lập tỉnh, đặc biệt, qui
mô GRDP tăng nhanh chóng: năm 2005 gấp
6,4 lần năm 2000; năm 2010 gấp 1,8 lần năm 2005 và gấp 30,3 lần so với năm
1991.
Kinh tế nông nghiệp của tỉnh Lào Cai từ 2001 - 2010 tăng mạnh về năng suất và sản lượng cây lương
thực, bước đầu hình thành các vùng chuyên canh, bảo đảm được an ninh lương
thực trên địa bàn toàn tỉnh, giúp nhân dân vùng cao, vùng khó khăn thoát khỏi
cảnh thiếu đói lương thực thường niên, ổn định đời sống; lai tạo ra một số cây
con mới có năng suất và giá trị kinh tế cao, tạo được một số mặt hàng xuất khẩu
có giá trị và sản phẩm mang thương hiệu Lào Cai. Giá trị sản xuất của nông
nghiệp năm 2010 gấp 1,4 lần so với năm 2005 và gấp 2 lần năm 2001, tăng bình
quân là 8,4%/năm, cao hơn 10 năm trước đó.
Về sản xuất công
nghiệp, Lào Cai
đã có hàng loạt giải pháp. Hạ tầng khu cụm, công nghiệp được tập trung đầu tư nhằm khai
thác tiềm năng, lợi thế: hình thành 2 khu công
nghiệp là Đông Phố Mới với diện tích 100 ha và Tằng Loỏng có diện
tích là 1.100 ha; đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật cụm công nghiệp Bắc
Duyên Hải với diện tích 80 ha. Chỉ tính trong 10 năm (2001- 2010), cơ sở
sản xuất công nghiệp tăng 2,3 lần, giá trị sản xuất công nghiệp đã tăng lên 7,0
lần. Công nghiệp Lào Cai trở thành ngành kinh tế có qui mô lớn nhất trong cơ
cấu kinh tế và có ảnh hưởng ngày càng lớn tới sự phát triển kinh tế - xã hội
của địa phương, đặc biệt là quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn và giải
quyết việc làm (Tổng giá trị sản xuất của công
nghiệp năm 2010 gấp gấp 5,2 lần năm 2000. Tốc độ tăng trưởng kinh tế công
nghiệp nhanh và cao nhất trong nền kinh tế Lào Cai, giai đoạn 2001- 2005 đạt
15,5%/năm, giai đoạn 2006 - 2010 đạt 32,3%, bình quân trong 10 năm đạt 23,9%/năm.
Giải quyết việc làm cho 21.000 lao động.). Có thể thấy, bước phát triển đột phá của khu vực
kinh tế công nghiệp, từ năm 2001 đến năm 2010, đã đưa Lào Cai từ một tỉnh nghèo
nhất của Việt Nam dần vươn lên thành tỉnh phát triển của vùng Tây Bắc.
Hoạt động thương mại, dịch vụ được mở rộng và phát triển hơn trước. Giá trị sản
xuất kinh tế dịch vụ tăng khá nhanh, năm 2010 gấp 2,7 lần năm 2001, tốc độ tăng
trưởng bình quân 10 năm đạt 13,4%/năm. Hoạt động xuất nhập khẩu từ năm 2001 đến
năm 2010 được đẩy mạnh cùng với việc tập trung đầu tư cho thực hiện các chương
trình và đề án phát triển kinh tế - xã hội. Kinh tế cửa khẩu được khai
thác theo diện rộng và bước đầu theo chiều sâu ở Khu kinh tế cửa khẩu Lào
Cai, cửa khẩu Mường Khương; thế mạnh về kinh tế du lịch được khai thác hiệu quả
ở Sa Pa, Bắc Hà, thành phố Lào Cai.
Với việc tập trung đầu tư theo hướng trọng tâm,
trọng điểm thông qua các chương trình, đề án, đã nhanh chóng tạo ra những kết
quả phát triển kinh tế, xã hội của tỉnh mang tính đột phá (Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình
quân giai đoạn 2001-2005 đạt 11,9%/năm, giai đoạn 2006 - 2010 đạt 13%/năm,
trong 10 năm đạt 12,5%/năm. Đặc biệt, qui mô GDP tăng nhanh chóng, năm 2005 gấp
6,4 lần năm 2000, năm 2010 gấp 1,8 lần năm 2005 và gấp 30,3 lần so với năm 1991).
Tổng thu ngân sách nhà nước
trên địa bàn năm 2010 đạt 4.540,4 tỷ đồng, gấp 2,3 lần năm 2005 và gấp 34,8 lần
năm 2001, đạt tốc độ tăng trưởng bình quân là 15,7%/năm.
Lĩnh vực xã hội
Về giáo dục và đào tạo: Tỉnh Lào Cai đã triển khai
thực hiện các đề án “Phổ cập tiểu học đúng độ tuổi và phổ cập trung học cơ sở
tỉnh Lào Cai giai đoạn 2001 - 2005 và đến 2010”, đề án “Phát triển giáo dục
giai đoạn 2006 - 2010”, coi đây là một nhiệm vụ chiến lược quan trọng, được đặt
trong kế hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Đến năm học
2009 - 2010, tỉnh Lào Cai có 195 trường THCS, gấp 2,3 lần năm học 2001 - 2002.
Năm 2001, Lào Cai có 100% số xã đạt chuẩn PCGDTH - chống mù chữ. Năm 2005, tỉnh
Lào Cai đạt chuẩn PCGDTH đúng độ tuổi. Năm 2007, Lào Cai vẫn duy trì được kết
quả PCGDTH đúng độ tuổi và hoàn thành các mục tiêu phổ cập giáo dục THCS, sớm
hơn so với kế hoạch đề ra và sớm hơn nhiều địa phương khác trong cả nước. Năm
2001, mới có 17,8% phòng học kiên cố, còn 40% phòng học tạm, đến năm 2010, toàn
tỉnh có 8.000 phòng học kiên cố, trên 2.000 phòng ở công vụ của giáo viên, gần
900 phòng ở học sinh. Số trường đạt chuẩn quốc gia tăng lên
từ 19 trường, năm học 2001 - 2002 lên 135 trường, năm học 2009 - 2010. Giáo dục
chuyên nghiệp mở rộng hơn về quy mô. Một số trường trung cấp của tỉnh Lào Cai
được thành lập. Năm 2000, Trường Trung học Sư phạm Lào Cai được nâng cấp thành
Trường Cao đẳng Sư phạm Lào Cai. Từ năm 2001 đến 2010 quy mô, loại hình và
ngành nghề đào tạo mở rộng và đa dạng hơn. Tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề tăng
từ 8,1%, năm 2001 lên 27,8% vào năm 2010.
Về y tế: Hệ thống mạng lưới y tế Lào
Cai được củng cố, mở rộng và nâng cấp cả về y tế dự phòng và điều trị, cơ sở
vật chất và trang thiết bị. Năm 2006, tỉnh Lào Cai có 2 bệnh viện đa khoa tỉnh,
đến năm 2010 có 4 bệnh viện đa tuyến tỉnh, 8 bệnh viện đa khoa huyện, 96 phòng
khám đa khoa khu vực. Các cơ sở khám chữa bệnh có chiều hướng tăng, bên cạnh
các cơ sở y tế công lập còn có các cơ sở y tế tư nhân. Năm 2001, tỉnh Lào Cai
có 100% xã, phường, thị trấn có trạm y tế với 227 cơ sở y tế. Đến năm 2010 có
266 cơ sở y tế, gồm cả nhà nước và ngoài nhà nước. Năm 2010, Lào Cai đã hoàn
thiện hệ thống y tế cho các tuyến tỉnh, huyện, xã phường, thị trấn và y tế thôn
bản, nhiều người dân, trong đó có cả người nghèo, vùng sâu, vùng xa được hưởng
dịch vụ y tế.
Năm 2001 Lào Cai chưa có xã đạt
chuẩn quốc gia về y tế, đến năm 2005, tỉnh Lào Cai có 5 xã đầu tiên đạt chuẩn
quốc gia y tế, năm 2010 là 126 xã. Số giường bệnh cũng tăng lên, năm 2005 tổng
số giường bệnh là 2.150, đến năm 2010 có 2.455 giường bệnh. Đến 31/12/2010 toàn
ngành y tế có 2.540 người, trong đó số bác sỹ là 427 người, đạt 7,7 bác sỹ/1vạn
dân, dược sỹ có trình độ đại học là 43 người. Trong khám chữa bệnh, người dân
Lào Cai đã được tiếp cận các dịch vụ y tế từ tuyến cơ sở, đặc biệt, công tác
khám chữa bệnh cho người nghèo ngày càng được quan tâm. Công tác tiêm chủng mở
rộng và phòng chống suy dinh dưỡng cũng được tỉnh Lào Cai chú trọng. Tỷ lệ trẻ
suy dinh dưỡng giảm từ 33,5%, năm 2005 xuống còn 26%, năm 2010. Tỷ lệ trẻ em
được tiêm chủng trên địa bàn tỉnh luôn đạt trên 90%. Công tác dân số, KHHGĐ,
được tỉnh Lào Cai đẩy mạnh thực hiện cùng với phát triển các dịch vụ y tế và
chăm sóc sức khoẻ con người nhằm kiểm soát sự gia tăng dân số và nâng
cao chất lượng dân số.
Năm 2006, toàn tỉnh Lào Cai mới có 19% số thôn,
bản, tổ dân phố có nhà văn hóa, đến năm 2010 tăng lên 36% số thôn bản có nhà
văn hóa. Hệ thống thư viện tỉnh, huyện, thành phố được đầu tư, trang bị về sách
báo (Từ năm 2001 đến năm 2010 số
sách trong thư viện tăng gấp 3,7 lần, số thẻ bạn đọc và số lượt bạn đọc sách
cũng tăng hơn nhiều so với 10 năm trước đó). Hệ thống
phát thanh, truyền hình được đầu tư đến các thôn bản, nhất là vùng sâu, vùng xa (Đến hết năm 2005, có 100% xã, phường, thị trấn được
phủ sóng phát thanh, 146/164 xã, phường, thị trấn được phủ sóng truyền hình,
43/164 xã, phường có trạm truyền thanh, 67% số hộ dân được xem truyền hình Việt
Nam và 87% số hộ dân được nghe Đài tiếng nói Việt Nam. Đến năm 2010, trên
địa bàn tỉnh Lào Cai có thêm 13 xã, phường, thị trấn được phủ sóng truyền hình;
thêm 72 xã, phường, thị trấn có trạm truyền thanh.).
Hoạt động thể dục thể thao có bước phát
triển mới theo hướng xã hội hoá. Phong trào "Toàn dân rèn luyện
thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại" được nhân dân trong tỉnh hưởng
ứng sôi nổi, tạo ra những chuyển biến mạnh mẽ trong công tác này. Số gia đình
đạt tiêu chuẩn gia đình thể thao năm 2000 là 2.000 hộ, đến năm 2005 là 6.100
hộ, năm 2008 là 7.458 hộ, chiếm 6,5% tổng số hộ trong toàn tỉnh. Nhiều xã,
phường, thị trấn, khu phố, bản, làng, trường học, đơn vị lực lượng vũ trang, cơ
quan, xí nghiệp có phong trào thể thao quần chúng phát triển sâu rộng. Đến năm
2010 trên địa bàn tỉnh Lào Cai đã có 69 nhà tập luyện và thi đấu thể thao, có
hàng trăm điểm văn hóa - thể thao ở khu dân cư được xây dựng theo hướng xã hội
hóa.
Chính sách
an sinh xã hội: Tỉnh Lào Cai đã đẩy mạnh công tác tuyên truyền,
giới thiệu việc làm nhằm tạo sự chuyển biến nhận thức của người dân. Cơ chế
chính sách khuyến khích phát triển kinh tế - xã hội theo vùng,
miền của Đảng và Nhà nước cùng với việc giải quyết vay vốn phát triển sản xuất,
quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, ngành nghề của địa phương cũng đã tạo cơ
hội về việc làm ổn định cho lao động. Hàng năm, tỉnh Lào Cai đã tạo được việc
làm cho hàng nghìn lao động (từ năm 2000 đến
năm 2005, bình quân mỗi năm Lào Cai tạo việc làm mới cho 6.100 lao động. Từ năm
2005 đến năm 2010 đã tạo việc làm mới cho 58.410 người, bình quân mỗi năm là
9.735 người.). Nhờ giải quyết được việc làm cho người lao động
mà tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị giảm khá nhanh (Năm 2001,
số người trong độ tuổi lao động thất nghiệp ở thành thị là 5,2%, đến năm 2010
chỉ còn 1,0%.). Nhờ thực
hiện đồng bộ các giải pháp, công cuộc xóa đói giảm nghèo của Lào Cai đã đạt
được kết quả quan trọng, góp phần thúc đẩy kinh tế, xã hội phát triển. Chênh
lệch tỷ lệ hộ nghèo giữa các vùng đã dần được thu hẹp, khoảng cách tỷ lệ nghèo
giữa nông thôn năm 2006 là 34,79% đến năm 2010 chỉ còn là 19,9%. Kết quả xóa
đói giảm nghèo tỉnh Lào Cai đã góp phần làm cho bộ mặt nông thôn vùng cao, biên
giới có nhiều đổi mới, cơ sở hạ tầng phát triển, đời sống của người dân được
nâng lên.
Giai đoạn 2011-2021
Lĩnh vực kinh tế
Khu vực nông nghiệp, nông thôn, vùng khó khăn được
tập trung nguồn lực đầu tư có chuyển biến mạnh mẽ; các khu kinh tế, du lịch, đô
thị phát triển, từng bước hình thành các vùng kinh tế động lực. Quan hệ kinh tế
đối ngoại được triển khai hiệu quả.
Nông nghiệp duy trì mức tăng trưởng khá, ứng dụng
công nghệ cao tiếp tục được mở rộng, hình thành các vùng sản xuất hàng hóa tập
trung; khu vực nông thôn có nhiều khởi sắc. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp chuyển
dịch phù hợp, giảm dần tỷ trọng ngành trồng trọt, chăn nuôi, tăng tỷ trọng
ngành lâm nghiệp, thuỷ sản và dịch vụ nông nghiệp. Các tiến bộ khoa học kỹ
thuật được chuyển giao, áp dụng ngày càng phổ biến. Chăn nuôi phát triển theo
hướng tập trung, mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng, bảo đảm vệ sinh môi
trường; thủy sản phát triển khá; lâm nghiệp phát triển bền vững; rừng đặc dụng,
khu bảo tồn thiên nhiên được bảo vệ tốt gắn với phát triển du lịch. Đến năm
2020, tỷ lệ che phủ rừng đạt 56%. Chương trình xây dựng nông thôn mới thiết
thực, hiệu quả. Năm 2020, toàn tỉnh có 54 xã hoàn thành nông thôn mới. Kết cấu
hạ tầng nông thôn được tập trung đầu tư ngày càng đồng bộ. Diện mạo khu vực
nông thôn thay đổi nhanh.
Sản xuất công nghiệp tiếp tục duy trì tốc độ tăng
trưởng cao, đóng góp quan trọng trong phát triển kinh tế của tỉnh; từng bước
khẳng định là trung tâm luyện kim, hóa chất, phân bón của vùng và cả
nước. Các dự án chế biến sâu khoáng sản được ưu tiên đầu tư, nhiều nhà máy
đi vào hoạt động phát huy hiệu quả. Tiềm năng thủy điện được khai thác hợp lý.
Các khu, cụm công nghiệp tiếp tục được đầu tư hoàn thiện hạ tầng, hệ thống quan
trắc, xử lý môi trường. Chính sách khuyến khích phát triển tiểu thủ công nghiệp
của tỉnh được triển khai hiệu quả, sản phẩm tiểu thủ công nghiệp đáp ứng nhu
cầu tiêu dùng.
Thương mại nội địa phát triển nhanh, góp phần thúc
đẩy sản xuất hàng hóa. Kết cấu hạ tầng thương mại, dịch vụ được quan tâm đầu
tư, phát triển đáp ứng tốt nhu cầu tiêu dùng và trao đổi hàng hóa của Nhân dân,
góp phần tích cực thúc đẩy sản xuất hàng hóa. Xúc tiến thương mại được chú
trọng thông qua hoạt động khảo sát thị trường, tham gia, tổ chức các hoạt động
kết nối xuất nhập khẩu hàng hóa, hội chợ triển lãm trong nước và quốc tế; thực
hiện các hoạt động hưởng ứng cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng
Việt Nam”.
Du lịch phát triển nhanh, từng
bước trở thành ngành kinh tế “mũi nhọn”. Khu du lịch quốc gia Sa Pa được quy
hoạch tổng thể, phân khu chức năng và chi tiết, từng bước hoàn thiện đầu tư.
Nhiều dự án, sản phẩm du lịch quy mô lớn, chất lượng cao như: Du lịch nghỉ
dưỡng, du lịch sinh thái và du lịch cộng đồng được tập trung đầu tư. Hợp tác
trong và ngoài nước về phát triển du lịch được mở rộng; liên kết trong hoạt
động du lịch tạo ra những chuỗi sản phẩm du lịch và dịch vụ đồng
bộ. Các di tích, di sản văn hóa, danh lam, thắng cảnh, các sản phẩm du lịch
bản sắc riêng của Lào Cai được khai thác, tạo thêm nhiều việc làm, thu nhập
cho Nhân dân, từng bước trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh. Năm 2019, Lào
Cai đón 5,1 triệu lượt khách du lịch, Sa Pa trở thành một khu du lịch trọng
điểm quốc gia, từng bước nâng tầm quốc tế.
Với việc tuyến đường cao tốc Nội
Bài – Lào Cai chính thức đi vào hoạt động (9/2014) đã mở ra nhiều thời cơ cho
Lào Cai. Tiềm năng, lợi thế được khai thác hiệu quả; liên kết phát triển kinh
tế với các tỉnh và giữa các ngành, lĩnh vực ngày càng đi vào chiều sâu; liên
kết phát triển du lịch vùng Tây Bắc được tăng cường. Chủ động hợp tác với các
tỉnh trên tuyến hành lang kinh tế Côn Minh - Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng -
Quảng Ninh, các tỉnh, thành phố trong khu vực và trong cả nước.
Kết cấu hạ tầng đô thị, du lịch,
cửa khẩu tiếp tục được đầu tư. Đến hết năm 2020, toàn tỉnh có 09 đô thị: 01 đô
thị loại II, 01 đô thị loại IV, 07 đô thị loại V và tương đương; hoàn thành
nâng cấp huyện Sa Pa lên thị xã Sa Pa, từng bước hoàn thiện đầu tư xây dựng khu
du lịch Quốc gia Sa Pa. Tỷ lệ đô thị hóa toàn tỉnh đạt 26%. Các nguồn vốn đầu
tư phát triển được huy động và sử dụng đạt kết quả cao. Cơ cấu vốn đầu tư
chuyển dịch theo hướng giảm dần tỷ trọng vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước, tăng
nhanh tỷ trọng các nguồn ngoài ngân sách nhà nước. Các Quỹ đầu tư phát
triển, Quỹ phát triển đất của tỉnh được bổ sung nguồn bảo đảm thực hiện đầu tư,
cho vay phát triển theo mục tiêu đạt hiệu quả.
Hoạt động tín dụng bám sát mục
tiêu, nhiệm vụ chính trị, đáp ứng nhu cầu về vốn cho phát triển kinh tế - xã
hội của tỉnh. Các thành phần kinh tế được quan tâm phát triển, bình đẳng trong
sản xuất kinh doanh, khuyến khích khởi nghiệp, sáng tạo. Công tác lập quy
hoạch, kế hoạch sử dụng đất được triển khai thực hiện đảm bảo theo quy định.
Quỹ đất công được quản lý chặt chẽ. Tiềm năng đất đai được khai thác, sử dụng
hiệu quả, tạo nguồn lực và đóng góp quan trọng cho đầu tư phát triển của tỉnh.
Quy hoạch, thăm dò, khai thác và sử dụng khoáng sản được thực hiện ngày càng
chặt chẽ, bảo đảm đúng quy định, theo hướng bền vững.
Lĩnh vực xã hội
Sự nghiệp giáo dục,
đào tạo đạt được nhiều kết quả quan trọng, nhiều chỉ tiêu đạt cao so
với khu vực. Phổ cập giáo dục tiếp tục được củng cố, duy trì và nâng
cao chất lượng. Toàn tỉnh cơ bản đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học cấp độ 3.
Tỷ lệ học sinh trung học cơ sở lên học trung học phổ thông, trung học chuyên
nghiệp, học nghề đạt trên 80% (năm 1991, 60% trẻ em trong độ tuổi không được đến trường). Đội ngũ cán bộ quản lý,
giáo viên được tăng cường về số lượng, chuẩn hóa về chất lượng, 100% giáo viên
đạt chuẩn trở lên. Mạng lưới cơ sở giáo dục và đào tạo được sắp xếp phù
hợp theo hướng tinh gọn đầu mối, mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng dạy và
học. Cơ sở vật chất trường, lớp học, nhà công vụ cho giáo viên và nhà ở
bán trú, nhà vệ sinh cho học sinh được đầu tư. Trường học đạt chuẩn Quốc
gia đạt 62,5%. Giáo dục thường xuyên mở rộng quy mô, đa dạng hóa loại hình đào
tạo đáp ứng nhu cầu người học. Xã hội hóa giáo dục được đẩy mạnh. Hoạt động
khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập có nhiều chuyển biến tích cực.
Nguồn nhân lực tăng nhanh về số lượng, đa dạng cơ cấu, chất lượng ngày càng
được nâng cao từng bước đáp ứng được yêu cầu phát triển của tỉnh. Các cơ sở dạy
nghề mở rộng quy mô, đa dạng loại hình đào tạo, nâng cao chất lượng theo hướng
xã hội hóa. Các trường chuyên nghiệp của tỉnh, trung tâm dạy nghề được sắp xếp
lại. Phân hiệu Đại học Thái Nguyên tại tỉnh Lào Cai được thành lập (năm 2015),
là cơ sở đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao phục vụ yêu cầu phát triển của xã
hội của tỉnh và khu vực Tây Bắc. Tỷ lệ lao động qua đào tạo năm 2020 đạt 55%.
Hoạt động khoa học và công nghệ được đẩy mạnh, gắn
nghiên cứu với ứng dụng, đổi mới mạnh mẽ cơ chế quản lý, các nhiệm vụ khoa học
được triển khai theo cơ chế đặt hàng. Công nghệ thông tin phát triển mạnh mẽ là
công cụ quan trọng trong cải cách hành chính và phát triển các lĩnh vực kinh tế
- xã hội của tỉnh. Hạ tầng thông tin được đầu tư tương đối đồng bộ từ tỉnh đến
cơ sở. Công nghệ thông tin được ứng dụng rộng rãi trong quản lý, chỉ số sẵn
sàng phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin của tỉnh (ICT Index) luôn xếp ở
thứ hạng cao (top 10) trên cả nước.
Xây dựng và phát triển văn hóa gắn với hoàn thiện
hệ thống thiết chế văn hóa, thể thao từ tỉnh đến cơ sở được đầu tư phát triển
và phát huy hiệu quả. Di sản văn hóa các dân tộc, các tri thức bản địa được bảo
tồn và phát huy giá trị. Nhiều di sản văn hóa phi vật thể quốc gia được sưu
tầm, phục dựng, hoàn thiện; di tích lịch sử văn hóa, danh lam thắng
cảnh được bảo vệ, tôn tạo góp phần giáo dục truyền thống và tạo ra các sản phẩm
mới phục vụ phát triển kinh tế. Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời
sống văn hoá” đi vào chiều sâu, gắn với xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh
thúc đẩy kinh tế phát triển, khơi dậy nhiều giá trị nhân văn trong cộng đồng.
Văn hóa doanh nhân đồng hành với sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh được
phát huy. Thể thao đạt được nhiều thành tích cao, các môn thể thao dân tộc được
chú trọng. Cơ sở vật chất phục vụ hoạt động thể thao được quan tâm xây dựng.
Công tác huấn luyện, đào tạo và phát triển thể thao thành tích cao được đổi mới
theo hướng chuyên nghiệp, đạt kết quả cao so với giai đoạn trước, đã có vận
động viên đạt huy chương khu vực và châu lục. Một số môn thể thao đã đạt trình
độ cao so với trong nước và đóng góp nhiều vận động viên xuất sắc cho các đội
tuyển quốc gia. Văn học, nghệ thuật phản ánh chân thực, sinh động cuộc sống lao
động và bản sắc văn hóa các dân tộc Lào Cai. Các loại hình báo chí phát triển
đáp ứng theo xu thế hiện đại, nội dung và hình thức ngày càng phong phú, hấp
dẫn, bảo đảm chất lượng, bám sát nhiệm vụ chính trị của tỉnh.
Công tác xóa đói, giảm nghèo
tiếp tục được đẩy mạnh, thực hiện đồng bộ đạt kết quả cao. Đề án giảm nghèo bền
vững và nhiều cơ chế, chính sách an sinh xã hội được quan tâm, tập trung triển
khai kịp thời, hiệu quả. Chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo
hiểm y tế, chính sách an sinh xã hội được bảo đảm; các chính sách dân tộc
phát huy hiệu quả. Mạng lưới y tế phát triển từ tỉnh đến thôn bản(năm 1991, 35 xã chưa có trạm y tế, 15 xã
trắng về y tế); cơ sở vật chất, trang thiết bị được tăng cường đầu tư, các bệnh viện tuyến tỉnh, huyện được đầu tư nâng
cấp, các trạm y tế cơ bản đáp ứng được bộ tiêu chí quốc gia về y tế. Tỷ
lệ người dân tham gia bảo hiểm y tế năm 2020 đạt 99%. Bảo vệ, chăm sóc trẻ em
đạt nhiều kết quả. Số bác sỹ trên 01 vạn dân đạt 12,3; giường bệnh trên
01 vạn dân đạt 41,1; tỷ lệ tăng dân số tự nhiên còn 1,2%.
Kết quả phát triển kinh tế - xã hội qua 30 năm của tỉnh Lào
Cai đã đạt nhiều thành tựu to lớn, toàn diện: tăng trưởng bình quân từ năm
1991-2020 luôn ở mức hai con số. Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch tích cực,
đúng hướng. Đến hết năm 2020: Tỉ trọng ngành nông, lâm nghiệp chiếm 12,2%,
ngành công nghiệp xây dựng chiếm 45,3%, dịch vụ chiếm 42,5%; GRDP năm 2020 gấp
gần 27 lần năm 1991, thu ngân sách nhà nước trên địa bàn tăng cao, năm 2019 đạt
9.500 tỷ đồng, gấp 500 lần năm 1991; thu nhập bình quân đầu người gấp 107 lần
so với năm 1991, tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh còn 8,2% (năm 1991 tỉ lệ hộ đói,
nghèo là 55%, trong đó trên 30 % thiếu đói thường xuyên).100% thôn, bản: có
đường giao thông ô tô cứng hóa đến trung tâm thôn, có điện lưới quốc gia (năm
1991 có 9/10 huyện chưa có điện lưới quốc gia), phủ sóng phát thanh, truyền
hình (trên vệ tinh Vinasat-1) có nhà văn hóa, có loa phát thanh, được phủ sóng
điện thoại, 100% hộ gia đình được xóa nhà tạm; 100% các trường học xóa phòng
học tạm (năm 1991 chủ yếu là phòng học tạm) và đáp ứng nhu cầu về nhà công vụ,
phòng học bán trú, nhà tắm, nhà vệ sinh, bếp ăn cho học sinh và giáo viên; 95%
hộ dân nông thôn được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh...